TIN TỨC & SỰ KIỆN
Tin tức   Khoa học và Công nghệ 00:00:00 Ngày 15/04/2014 GMT+7
Kiên trì để có sản phẩm tốt
Máy đo nhiệt độ xăng dầu là một trong những ví dụ về ứng dụng khoa học công nghệ vào thực tế đã tạo được ấn tượng, sự quan tâm, chú ý của nhiều người tại Hội chợ Triển lãm Khoa học Công nghệ của ĐHQGHN trong thời gian vừa qua. Phóng viên website ĐHQGHN đã có dịp trò chuyện với anh Nguyễn Thế Nghĩa, Giảng viên Khoa Vật lí Trường ĐH Khoa học Tự nhiên, ĐHQGHN, người sáng chế sản phẩm này.
Anh có thể cho biết tại sao ngành xăng dầu lại phải cần máy đo nhiệt độ xăng dầu?
Xăng dầu giãn nở thể tích khoảng 0,15% /10C. Vì vậy, nếu nhiệt độ tăng 100C thì thể tích thay đổi tăng lên 1,5%. Ví dụ như một xe téc chở 10m3 xăng dầu được bơm từ kho với nhiệt độ môi trường là 200C, quá trình vận chuyển do thời tiết nắng nóng tăng 300C và giao cho cửa hàng lúc này, thì thể tích tăng 150 lít xăng. Vì vậy để tránh thất thoát, khi giao nhận xăng dầu, bắt buộc người ta phải đo nhiệt độ xăng dầu để đưa về thể tích ở nhiệt độ quy chuẩn, chẳng hạn như thể tích ở 150C (V15). Đó là lý do mà ngành xăng dầu luôn luôn cần máy đo nhiệt độ và thiết bị đo mức độ để kiểm tra và giao nhận hàng hóa theo qui định.
Vậy lâu nay các cửa hàng xăng dầu thường sử dụng những dụng cụ nào để đo nhiệt độ xăng dầu?
Hiện nay các cửa hàng xăng dầu có hai phương pháp đo nhiệt độ, một là dùng nhiệt kế thuỷ ngân, thả xuống bể ngâm 1 lúc, rồi kéo lên nhanh để đọc ngay giá trị trên thiết bị. Phương pháp này không đảm bảo tính chính xác vì trong khoảng thời gian kéo lên, nhiệt độ thay đổi, cũng gây ra sai số và phụ thuộc vào kỹ thuật đo của từng người. Hoặc đối với những bể rộng và sâu thì phải đo ở nhiều vị trí khác nhau, với cách đo bằng thuỷ ngân thì sẽ không đo được nhiều điểm. Đây là nhược điểm của dụng cụ đo truyền thống bằng thủy ngân. Cách thứ hai là dùng nhiệt kế điện tử (máy đo nhiệt độ). Tuy nhiên những thiết bị đo hiện đại, chuyên dùng cho xăng dầu được nhập của nước ngoài, nhưng giá thành rất cao, nếu tính cả chi phí vận chuyển và thuế nhập khẩu thì máy có giá khoảng 1500 USD. Với giá thành như vậy ngành xăng dầu không đủ kinh phí để trang bị cho tất cả hệ thống các cửa hàng xăng dầu. Bên cạnh đó, trong quá trình sử dụng cần phải bảo hành và bảo trì rất khó thực hiện khi thiết bị nhập của nước ngoài. Người ta cũng có thể sử dụng những máy đo nhiệt độ môi trường bình thường, với giá rẻ hơn nhiều, để làm việc này, nhưng những máy này thường không đảm bảo độ chính xác và các yêu cầu đặc thù của ngành xăng dầu.
Được biết anh cũng đã giải bài toán khó khăn cho ngành xăng dầu - chế tạo máy đo nhiệt độ xăng dầu, vậy anh có thể giới thiệu đôi nét về sản phẩm này, và yêu cầu đặt ra đối với mỗi sản phẩm?
Về nguyên tắc làm máy đo nhiệt độ thì đơn giản. Tuy nhiên, để làm được một thiết bị đo lường chính xác, đặc biệt dùng trong môi trường xăng dầu thì không đơn giản. Tôi đã nghĩ rằng cần phải chế tạo ra một loại máy đo phục vụ cho ngành xăng dầu với chất lượng cao, độ chính xác tương đương thiết bị ngoại nhập và giá thành rẻ, đáp ứng được tất cả những yêu cầu đặt ra như, thứ nhất phải chịu được môi trường xăng dầu. Những thiết bị đo thông thường phần lớn không chịu được môi trường này, riêng dây cáp cho vào xăng là loại dây cáp đặc biệt chịu được nhiên liệu xăng dầu; thứ hai, sai số của thiết bị được phép dưới 0,2o C, máy có sai số lớn hơn không thể đáp ứng được; thứ ba phải ổn định tốt theo thời gian, an toàn, chống bụi và nước…bởi vì môi trường thực tế không giống như trong phòng thí nghiệm. Như vậy, đứng trước những yêu cầu đặt ra, các sản phẩm chế tạo phải đảm bảo được yêu cầu chống được nước và xăng dầu, ổn định, chính xác và độ bền cao.
Máy đo có các thông số như sau:
Máy đo nhiệt độ cầm tay (4 x 8 x 14 cm), chỉ thị số LCD
Cáp đo dài 3 m, 5 m, 12 m. Cáp chịu xăng dầu.
Máy làm kín chống thấm nước, xăng dầu. Tự động báo Pin yếu.
Dải đo nhiệt độ từ 0oC - 50oC, sai số ± 0,15oC
Máy được kiểm chuẩn bởi cơ quan đo lường Nhà nước, có tem và giấy chứng nhận.
Đến nay anh đã có bao nhiêu máy đo xăng dầu được đưa vào thị trường? Những ưu điểm của sản phẩm này?
Chúng tôi đã có rất nhiều đối tác sử dụng sản phẩm này như Công ty Xăng dầu khu vực 1, Xí nghiệp bán lẻ xăng dầu Hà Nội, Công ty xăng dầu khu vực 3 (Hải Phòng), Công ty xăng dầu và chất đốt Hà Nội, Công ty xăng dầu Hà Sơn Bình, Công ty xăng dầu Hà Bắc… họ đã đánh giá rất tốt sản phẩm. Đến nay có thể nói chúng tôi đã cung cấp ra ngoài thị trường hàng nghìn chiếc. Khi sử dụng sản phẩm của chúng tôi các đối tác có được thuận lợi như được bảo hành, sửa chữa nhanh chóng, điều này hơn hẳn sản phẩm nhập của nước ngoài. Đối tác sử dụng trong vòng 3 tháng đầu nếu thiết bị hỏng do lỗi kỹ thuật, chúng tôi sẵn sàng đổi máy mới, và máy được bảo hành 1 năm. Các sản phẩm đều được kiểm định chất lượng qua Trung tâm Đo lường hoặc Chi cục Đo lường, và máy đạt yêu cầu mới được đưa vào sử dụng. Sản phẩm của chúng tôi chất lượng tương đương với các các sản phẩm của nước ngoài nhưng giá thành rất rẻ, góp phần giải quyết một vấn đề thực tế, giúp cho các đơn vị sản xuất trong ngành xăng dầu có thiết bị đo phục vụ cho hoạt động kinh doanh của mình.
Tâm lí người Việt Nam "sính" hàng ngoại, làm thế nào để sản phẩm của anh đứng vững trong thị trường?
Từ năm 1995, tôi đã chế tạo ra chiếc máy đầu tiên, để dẫn đến thành công tôi đã đã phải sửa đi sửa lại nhiều lần. Tất cả những điện trở cũng như chiết áp và các linh kiện trong máy đều là loại dùng cho đo lường, sử dụng những điện trở thông thường bị trôi do nhiệt độ rất nhanh, không đảm bảo chính xác. Nhưng việc khó khăn nhất lúc bấy giờ là làm thế nào để giới thiệu được các sản phẩm ra ngoài thị trường, thuyết phục các đối tác mua máy đâu phải dễ dàng vì tâm lí của người Việt là sính hàng ngoại, thiếu niềm tin vào các sản phẩm trong nước. Ban đầu chúng tôi đã phải thuyết phục các đối tác bằng cách để họ dùng thử máy của mình khoảng 3 - 6 tháng đầu, để họ so sánh với các thiết bị đo khác của các hãng nước ngoài khác. Sau khi các đối tác thấy máy đo tốt, thuận lợi trong việc cung cấp và bảo hành, giá thành rẻ bằng 1/5 của thiết bị ngoại nhập, từ đó các đối tác tin tưởng đặt hàng. Bên cạnh những khó khăn của một người làm khoa học khi tiếp cận với thị trường còn nhiều khó khăn khác nữa, như cạnh tranh với thị trường, khi máy của mình ra đời bán được thì các nơi khác cũng chế tạo và bán rẻ hơn. Đã có một số đối tác chuyển sang dùng thiết bị rẻ đó, nhưng sau đó lại quay lại với chúng tôi. Tuy nhiên càng ngày càng khó khăn, mặc dù chúng tôi đã liên tục cải tiến chất lượng và mẫu mã. Hiện tại có khá nhiều đơn vị cung cấp máy đo nhiệt độ khác nhau, với những mục đích và chất lượng khác nhau. Vì vậy để lựa chọn đúng máy đo cho xăng dầu thì không phải người sử dụng nào cũng có sự lựa chọn đúng.
Từ những thành công đạt được anh có kì vọng gì? Hướng nghiên cứu tiếp tục trong tương lai?
Nhiệm vụ chính của tôi là giảng dạy và nghiên cứu, và tôi cũng đang có những ấp ủ trong nghiên cứu khoa học cơ bản. Việc làm máy đo để đáp ứng nhu cầu thực tế và để giảm bớt khó khăn về kinh tế gia đình. Tuy nhiên thông qua thực tế này, với sự cạnh tranh gay gắt của thị trường như vậy, cũng như đòi hỏi khắc nghiệt của môi trường thực tế mà các sản phẩm khoa học công nghệ phải đối mặt, tôi cho rằng đây cũng là một trong những thách thức của các nhà khoa học, đặc biệt khoa học ứng dụng. Tôi rất mừng vì có sự quan tâm chỉ đạo của lãnh đạo các cấp của ĐHQGHN, đặc biệt là Ban Giám đốc, để làm thế nào cho các sản phẩm khoa học ứng dụng được đi vào thực tiễn nhiều hơn, thực hiện theo đúng sứ mệnh của ĐHQGHN, trong đó có nghiên cứu khoa học công nghệ ứng dụng hướng tới vị nhân sinh. Khoa Vật lí của chúng tôi hiện nay cũng đã và đang nghiên cứu rất nhiều cụm công trình, trong đó có các sản phẩm khoa học ứng dụng. Chúng tôi rất cần một cầu nối từ phòng thí nghiệm - nơi cho ra đời các sản phẩm - đến được những nơi rất cần những sản phẩm đó. Tôi lấy ví dụ là nếu được cung cấp máy đo nhiệt độ cho toàn ngành xăng dầu trong cả nước, thì mỗi năm cũng phải tiêu thụ được nhiều ngìn chiếc (vì vòng đời của máy khoảng vài năm, tùy theo sự giữ gìn của người sử dụng). Về chất lượng, chúng tôi hoàn toàn đáp ứng tất cả các yêu cầu của ngành xăng dầu. Tuy nhiên ở địa vị của tôi sẽ khó thuyết phục được điều đó.
Theo anh, làm thế nào để những kết quả nghiên cứu đi vào cuộc sống, đáp ứng nhu cầu xã hội?
Theo tôi, nghiên cứu khoa học ứng dụng đòi hỏi người làm phải có lòng kiên trì để cải tiến sản phẩm của mình, sao cho đạt được chất lượng tốt nhất, đáp ứng yêu cầu thực tế. Điều này tuy nghe có vẻ đơn giản, nhưng làm thực tế mới thấy không phải dễ dàng. Một thiết bị đơn giản nhất cũng chứa đựng nhiều sáng kiến cải tiến, kể cả các bước trong quy trình công nghệ, thứ tự các công đoạn phải hợp lý… Một thiết bị khi làm ra có thể hoạt động rất tốt trong phòng thí nghiệm, nhưng ra ngoài hiện trường với nắng mưa, cát bụi, dầu mỡ, với sự quăng quật của người công nhân…thì rất dễ hỏng. Môi trường thực tế khác với trong phòng thí nghiệm, và sự phản hồi của người sử dụng mới chính là nơi kiểm định tốt nhất. Chính vì vậy, để đáp ứng nhu cầu xã hội, nhà khoa học cần phải có niềm tin và lòng kiên trì để đi đến cùng mục đích của mình, phải thử nghiệm nhiều lần mới ra được sản phẩm đáp ứng được thực tế tốt nhất, và liên tục cải tiến nâng cao chất lượng phục vụ cuộc sống.
Trân trọng cảm ơn anh.

 






 Bình Minh - VNU Media
   In bài viết     Gửi cho bạn bè
  Từ khóa :
   Xem tin bài theo thời gian :

HÌNH ẢNH

TRÊN WEBSITE KHÁC
THĂM DÒ DƯ LUẬN
Bạn sẽ thi vào trường đại học nào?
  • Trường ĐH Khoa học Tự nhiên
  • Trường ĐH Khoa học Xã hội
  • Trường ĐH Ngoại ngữ
  • Trường ĐH Công nghệ
  • Trường ĐH Kinh tế
  • Trường ĐH Giáo dục
  • Trường ĐH Việt Nhật
  • Trường ĐH Y Dược
  • Trường ĐH Luật
  • Trường Quản trị và Kinh doanh
  • Trường Quốc tế
  • Khoa Các Khoa học liên ngành
  • Viện Quốc tế Pháp ngữ